HAI BÀ TRƯNG
Đầu thế kỷ thứ 1, ở huyện Mê Linh có hai chị em Trưng Trắc và
Trưng Nhị. Hai bà được sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan nên hai
chị em sớm có lòng căm thù giặc sâu sắc và nuôi ý định đánh đuổi giặc ngoại xâm
giải phóng đất nước.
Trưng Trắc rất
có tiết nghĩa, tính khí hùng dũng, có trí quyết đoán sáng suốt. Bà cùng chồng
là Thi Sách ( người giàu lòng yêu nước, có chí khí ở huyện Chi Diên ) ngầm liên
kết với các thủ lĩnh ở các vùng để chuẩn bị khởi nghĩa.
Lúc bấy giờ,
quan Thái thú ở quận Giao Châu là Tô Định rất tham bạo, gây nhiều khổ sở cho
nhân dân. Việc khởi nghĩa của Trưng Trắc cùng chồng bị phát hiện. Hắn ra lệnh bắt
giết Thi Sách để làm nhục nhuệ khí dân ta. Trưng Trắc nén đau thương cùng Trưng
Nhị đứng ra kêu gọi dân chúng khắp nơi nổi dậy chống quân đô hộ.
Mùa xuân năm
40, quân Hai Bà tấn công chiếm được Mê Linh. Với khí thế dâng cao đã chiếm được
thành Luy Lâu là bản doanh của Tô Định. Tô Định phải chạy về Nam Hải, chính quyền
đô hộ của nhà Hán sụp đổ. Trưng Trắc tự xưng Vương lấy hiệu là Trưng Nữ Vương (
hay Trưng Vương )
Tháng giêng
năm 42, vua Hán là Hán Quang Vũ lại sai Mã Viện sang xâm lược nước ta. Hai Bà
thấy thế giặc cường thịnh, liệu quân ta không chống nổi, bèn lui quân về vùng Cấm
Khê .
Năm 43 , Mã Viện
đã kéo quân bao vây Cấm Khê. Cuộc chiến diễn ra ác liệt, quân của Hai Bà yếu thế
dần. Biết không địch nổi quân Hán, Hai Bà nhảy xuống sông Hát tự vẫn. Sau khi
Hai Bà mất, nhân dân Âu Lạc đã lập đền thờ ở nhiều nơi như đền Hạ Lôi, đền Hát
Môn, đền Đồng Nhân ( Hà Nội ) , đền Phụng Công ( Văn Giang , Hưng Yên ) để tưởng
nhớ công ơn Hai Bà .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét